Phân tích 14 câu thơ đầu trong bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng
I. Mở bài
Quang Dũng là một nghệ sĩ đa tài: làm thơ, viêt văn, vẽ tranh, soạn nhạc. Nhưng trước hết ông vẫn là một nhà thơ xuất sắc của thi ca Việt Nam hiện đại, một nhà thơ trưởng thành từ cuộc sống kháng chiến chống Pháp, một hồn thơ phóng khoáng và tâm huyết, một tiếng thơ tinh tế và lãng mạn... Tây Tiến là bài thơ tiêu biểu cho đời thơ Quang Dũng, thể hiện tập trung những nét đặc sắc trong phong cách nghệ thuật của nhà thơ. Tây Tiến cũng là một trong số những bài thơ hay nhất viết về đề tài người lính của thơ ca kháng chiến chống Pháp. Cả bài thơ là nỗi nhớ da diết của Quang Dũng hướng về những kỉ niệm không thể nào quên với miền Tây và trung đoàn Tây Tiến.
II. Thân bài
Trong 14 câu đầu, nỗi nhớ của nhà thơ chủ yếu hướng về chặng đường hành quân gian nan, vất vả của đoàn quân Tây Tiếnqua vùng rừng núi miền Tây. Thông qua những kỉ niệm với thiên nhiên, con người, Quang Dũng đã khắc họa vẻ đẹp hào hoa, hào hùng của con người chiến binh Tây Tiến. Câu thơ đầu chia thành hai vế trong nhịp ngắt 4 - 3:
Sông Mã là dòng sông chảy dọc theo địa bàn biên giới Việt - Lào của các tỉnh Mộc Châu, Sầm Nưa, Mai Châu, Quan Hóa... Đây là dòng sông nhiều ghềnh thác đổ dốc dữ dội, một mình băng băng giữa núi rừng hùng vĩ, hai bên bờ sông còn rải rác mồ của các chiến sĩ Tây Tiến. Vì thế, sông Mã là một cảnh sắc thiên nhiên hùng vĩ, là hình ảnh của thiên nhiên miền Tây; nhưng dòng sông Mã còn là dòng sông gắn liền với chặng đường hành quân của trung đòan, từng chia sẻ và chứng kiến những buồn vui, những mất mát, hi sinh, từng "gầm lên khúc độc hành" tiễn đưa tử sĩ... Sông Mã đựng đầy kỉ niệm về trung đoàn Tây Tiến năm xưa. Hành hương trở về quá khứ, Quang Dũng đã nhắc tới sông Mã như một biểu tượng đầu tiên của nỗi nhớ
Bài thơ được viết khi Quang Dũng đang ở Phù Lưu Chanh, xa trung đoàn, xa đồng đội, xa núi rừng miền Tây và dòng sông Mã thân yêu. Nhịp ngắt 4 - 3 tạo cảm giác như có một phút ngừng lặng để cảm nhận sự trống trải, mênh mông trong thực tại bởi"sông Mã xa rồi...", để sau đó, hiện thực mờ đi, nỗi nhớ ùa vào trong tiếng gọi tha thiết hướng về quá khứ: "Tây Tiến ơi!".Tiếng gọi ấy không dừng lại trong câu thơ đầu mà như để ngân nga nỗi tiếp trong vần "ơi" của từ láy "chơi vơi" trong câu thứ hai. Phép điệp vần tinh tế khiến tiếng gọi như âm vang, đập vào vách đá, dội lại lòng người, da diết, bâng khuâng... Sau tiếng gọi ấy, nỗi nhớ ào ạt, trào dâng trong câu thơ tiếp theo:
Từ "nhớ" điệp lại ở đầu hai vế câu diễn tả một nỗi nhớ day dứt, ám ảnh, không thể nguôi ngoai. Vế đầu của câu thơ xác định đối tượng của nỗi nhớ: "nhớ về rừng núi". Đó là không gian mênh mông của miền Tây với những địa danh như Sài Khao, Mường Lát, Pha Luông... những địa danh vừa gợi lên kỉ niệm về con đường hành quân gian truân, vất vả, vừa gây ấn tượng mạnh mẽ về miền đất heo hút, hoang sơ...
Và vì thế, nỗi nhớ không chỉ dừng lại ở "rừng núi", nỗi nhớ còn hướng về những năm tháng quá khứ đầy kỉ niệm và những đồng đội thân yêu nay kẻ còn người mất.
Vế sau của câu thơ dành để miêu tả sắc thái của nỗi nhớ. "Chơi vơi" là từ láy vần gợi đọ cao phiêu du, bay bổng, là từ láy thật phù hợp để miêu tả nỗi nhớ hướng về vùng núi cao miền Tây. Hơn nữa, từ láy "chơi vơi" còn gợi cảm giác về nỗi nhớ da diết, mơ hồ, đầy ám ảnh, một nỗi nhớ lơ lửng ăm ắp khôn nguôi. Có thể thấy hai câu thơ đầu đã thể hiện cảm hứng chủ đạo của đoạn thơ, cũng là của bài thơ, đó là nỗi nhớ tha thiết của người cựu chiến binh miền Tây hướng về miền Tây, về trung đòan Tây Tiến, về những năm tháng quá khứ không thể nào quên.
a. Kí ức về miền Tây
Thông qua những nét vẽ thật tài hoa, vừa chân thực, vừa thấm đẫm chất lãng mạn, Quang Dũng đã làm hiện lên bức tranh của thiên nhiên miền Tây heo hút, hiểm trở nhưng vô cùng hùng vĩ, thơ mộng và xiết bao kì thú. Nét đặc sắc đầu tiên của thiên nhiên miền Tây trong kí ức của Quang Dũng chính là màn sương rừng mờ ảo: sương phủ dày ở Sài Khao, sương bồng bềnh ở Mường Lát... Đó không chỉ là màn sương của thiên nhiên mà còn là màn sương mờ của kỉ niệm, của nỗi nhớ nhung:
Bút pháp hiện thực trong câu thơ trên đã miêu tả một đoàn quân dãi dầu, mệt mỏi, thấp thoáng ẩn hiện trong sương. Nhịp ngắt 4 - 3 khiến trọng tâm câu thơ rơi và chữ "lấp" - một động từ có sức gợi tả; màn sương rừng miền Tây mênh mông, dày đặc, che kín của một "đòan quân", trùm phủ, khuất mờ rừng núi khiến con đường hành quân của chiễn sĩ thêm vất vả, gian lao. Tới câu thơ sau, hiện thực khắc nghiệt đã được thi vị hóa bởi cảm hứng lãng mạn: đêm sương trở thành "đêm hơi" bồng bềnh; những ngọn đuối soi đường di chuyển dọc theo con đường chiến sĩ hành quân được nhìn thành những đóa "hoa" chập chờn, lung linh, huyền ảo...Những thanh bằng nhẹ bỗng trong câu thơ càng làm đậm thêm sự hư ảo của màn sương rừng. Sự khắc nghiệt của thiên nhiên đã được cảm nhận một cách thi vị bởi những tâm hồn lãng mạn, hào hoa.
Nhớ đến miền Tây, không thể nào quên được sự hiểm trở và hùng vĩ vô cùng của dốc núi. Ba câu thơ tiếp theo đã miêu tả thật sắc nét khung cảnh thiên nhiên hùng vũ và hiểm trở ấy, qua đó làm hiện lên cuộc hành quân gian lao, vất vả, ý chí bất khuất, kiên cường, tinh thần lạc quan, yêu đời của người lính Tây Tiến. Câu thơ thứ nhất tập trực tiếp miêu tả dốc núi miền Tây trập trùng, hiểm trở:
Sự phối hợp dày đặc của năm thanh trắc đã tạo ra âm hưởng gập ghềnh cho một câu thơ bảy chữ khiến người đọc có thể hình dung ra phần nào cuộc hành quân gian truân, vất vả vô cùng của chiến sĩ Tây Tiến trong một địa hình mà sự hiểm trở được gợi ra ngay trong nhạc điệu của câu thơ. Câu thơ ngắt nhịp 4 - 3, từ "dốc" điệp lại ở đầu hai vế câu thơ đã thể hiện sự trùng điệp, chồng chất, nối tiếp như tới vô tận của những con dốc, cũng phần nào gợi lên nỗi nhọc nhằn của người lính trên đường hành quân: con dốc này chưa qua, con dốc khác lại đợi sẵn, núi rừng miền Tây như muốn thử thách ý chí, nghị lực của các anh.
Sự hiểm trở của dốc núi miền Tây cũng hiện ra trong ý nghĩa tạo hình và biểu cảm của những từ láy "khúc khuỷu" và"thăm thẳm". "Khúc khuỷu" miêu tả sự gồ ghề, gập ghềnh của dốc núi ngay dưới chân chiến sĩ. Còn từ láy "thăm thẳm"lại gợi độ cao hun hút, độ xa vời khi đưa mắt nhìn tiếp con đường hành quân vẫn cheo leo, ngút ngàn như khôn cùng. Con đường lên miền Tây quả là "khó như đi lên trời xanh".
Dốc núi miền Tây còn được gợi tả gián tiếp trong câu thơ sau với việc tô đậm ấn tượng về một độ cao chót vót:
Từ láy "heo hút" vừa gợi cao, vừa gợi xa, vừa gợi vắng được đảo lên đầu câu như để nhấn mạnh sự hoang sơ, xa vắng, thăm thẳng như vô tận của dốc núi miền Tây trong cảm nhận của chiến sĩ Tây Tiến - những chàng trai đến từ thủ đô hoa lệ. Còn "cồn mây" lại là một ẩn dụ đặc sắc cho thấy mây núi miền Tây bồn bề, chồng chất, dựng lên thành dốc, thành cồn; từ đó câu thơ gián tiếp cho thấy dốc núi miền Tây cao đến mứa con đường như lấn vào mây, mây bao phủ đường lối, mây mờ mịt trập trùng, mây khiến con đường hành quân của chiến sĩ càng thêm cheo leo, hiểm trở, hoang vu. Vế sau của câu thơ cũng tiếp tục gợi tả độ cao của dốc núi khi người lính như đi trong mây, mũi súng như chạm tới đỉnh trời. Đó là một cảm nhận có thực của thị giác khi những người lính hành quân trên dốc núi miền Tây, địa hình heo hút, hiểm trở, làm tăng thêm những vất vả, gian truân cho người lính. Nhưng bằng cách nói tếu táo, hóm hỉnh đầy chất lính trong hình ảnh nhân hóa "súng ngửi trời", Quang Dũng đã cho thấy tâm hồn trẻ trung của những người lính phong trần coi thường gian lao, vất vả. Có nhà thơ đã cho rằng hình ảnh "súng ngửi trời" là "trung tâm hùng tráng của bức tranh hiểm trở, bởi ở chỗ cao ấy, có con người". Và do vậy, câu thơ không chỉ gợi lên sự hiểm trở của dốc núi, sự tươi trẻ, lạc quan của chiến sĩ Tây Tiến, tứ thơ còn khiến các anh hiện ra trong dáng vẻ ngang tàng, kiêu dũng của những chàng trai chinh phục độ cao.
Dốc núi lại tiếp tục được miêu tả trong một nét vẽ sắc sảo và gân guốc:
Điệp ngữ "ngàn thước" là một ước lệ nghệ thuật có tính định lượng, khắc họa vẻ đẹp hùng vĩ, chênh vênh, kì thú của núi rừng miền Tây. Yếu tố tương đồng của điệp ngữ "ngàn thước" và tính chất tương phản của các động từ "lên - xuống"trong hai vế câu đã tạo ra cảm giác về một nét gập đột ngột, dữ dội cho câu thơ, cũng là cách để nhà thơ gợi tả thật tài hoa độ của của dốc, độ sâu của vực: bên này đường lên núi dựng đứng, vút cao; bên kia vực đổ xuống hun hút, hiểm trở.
Trong cả ba câu thơ đặc bịêt giàu tính tạo hình và biểu cảm, dốc núi miền Tây được miêu tả hoặc trực tiếp hoặc gián tiếp nhưng đều khắc họa được đồng thời cả sự hiểm trở lẫn vẻ đẹp hùng vĩ, kì thú. Thông qua bức tranh thiên nhiên, có thể thấy vẻ đẹp tâm hồn của những người lính Tây Tiến: họ lạc quan, mạnh mẽ, coi thường mọi gian truân, vất vả; những thử thách của thiên nhiên chỉ càng làm rõ hơn ý chí, sức mạnh, tâm hồn trẻ trung và tư chất nghệ sĩ của họ.
Sau những câu thơ hun hút, nhọc nhằn miêu tả dốc núi, câu thơ tả mưa miên man trong bảy thanh bằng, cùng với rất nhiều âm tiết mở; câu thơ đã gợi tả một không gian mênh mang, dàn trải, nhạt nhòa trong mưa:
Hình ảnh "mưa xa khơi" có thể coi là một ẩn dụ cho thấy cả thung lũng mờ mịt như loãng tan trong miền mưa, không gian bỗng như mênh mang, xa vời hơn... Sau những chặng đường hành quân gian khổ, người lính như đang dừng chân đâu đó, đưa mắt nhìn cả núi rừng chìm trong mưa. Ánh mắt những người lính xa nhà bâng khuâng hướng tới những ngôi nhà bồng bềnh, thấp thoáng, ẩn hiện trong màn mưa hư ảo... Sắc thái phiếm chỉ khiến cụm từ "nhà ai" trở nên mơ hồ, xa xăm. Sắc thái nghi vấn lại gợi nỗi trăn trở trong lòng người. Cả câu thơ chỉ có duy nhất tiếng "nhà" mang thanh huyền như một thoáng trầm lắng, suy tư để rồi sau đó, tất cả những thanh không chơi vơi trong nỗi nhớ. Giữa mưa rừng buốt lạnh, giữa núi rừng mênh mông, hình ảnh ngôi nhà gợi cảm giác ấm áp, nhớ nhung dễ làm xao xuyến lòng người xa quê.
Núi rừng miền Tây tiếp tục được miêu tả trong những nét vẽ đầy ấn tượng:
"Thác gầm thét" và "cọp trêu người" là hai hình ảnh nhân hóa thể hiện sự dữ dội, hoang sơ đầy bí hiểm của núi rừng miền Tây. Bút pháp đối lập của cảm hứng lãng mạn được sử dụng trong phép đối thanh rất tinh tế ở hai câu thơ này. Nếu câu trên có các tiếng "thác", "thét" mang thanh trắc ở âm vực cao thì câu dưới là các tiếng "Hịch", "cọp" cũng mang thanh trắc nhưng lại thuộc âm vực thấp. Và có thể thấy những dấu sắc trong câu trên như gợi âm thanh của tiếng thác nước man dại ở vòm cao thăm thẳm; những dấu nặng liên tiếp trong câu thơ dưới lại như một phỏng tiếng bước chân nặng nề của thú dữ, gợi ra cái thâm u, bí ẩn đầy đe dọa ở vòm tối thấp của núi rừng.
"Chiều chiều" và "đêm đêm" là những trạng ngữ chỉ dòng thời gian tuần hòan, miên viễn, vĩnh hằng. Những sức mạnh thiên nhiên khủng khiếp đã ngự trị núi rừng miền Tây không phải một chiều, một đêm mà là "chiều chiều - đêm đêm" - sự ngự trị muôn đời! Nhưng cũng chính điều này lại càng khiến chân dung người chiến sĩ Tây Tiến thêm hào hùng, mạnh mẽ: họ đã hành quân qua những vùng đất hoang sơ, dữ dội, vắng bóng con người, những vùng đất tưởng như chỉ là vương quốc riêng của heo hút mây trời, của rừng thiêng nước độc; vùng đất ấy nay đã in dấu chân của những người chiến sĩ kiên cường, dũng cảm trong đoàn quân Tây Tiến.
b. Kí ức về người lính Tây Tiến trên đường hành quân
Sự vất vả, gian truân cũng như vẻ đẹp trong tâm hồn người lính Tây Tiến đã ít nhiều thể hiện trong những câu thơ miêu tả cảnh thiên nhiên miền Tây và hành trình qua miền Tây, ngòai ra còn có những câu thơ trực tiếp miêu tả hình ảnh người lính cũng như những kỉ niệm của họ trong chặng đường hành quân. Trước hết là một kí ức sâu đậm của Quang Dũng về hình ảnh một người chiến sĩ Tây Tiến trên đường hành quân:
Từ láy "dãi dầu" đã thể hiện tòan bộ những vất vả, nhọc nhằn của các anh khi hành quân qua miền Tây, khi vượt qua những núi cao, vực sâu, thác ghềnh dữ dội, vượt qua những nắng mưa, sương gió miền Tây . . . Hai câu thơ tựa nhưa một bức kí họa đầy ấn tượng về người lính Tây Tiến. Có thể hiểu đây là hình ảnh người lính phong trần buông mình vào giấc ngủ hiếm hoi trong phút dừng chân, một giấc ngủ mệt nhọc nhưng vô tư, trẻ trung. Cũng có thể hiểu đây là câu thơ miêu tả một thực tế đau xót trên chiến trường khi người lính kiệt sức gục ngã không thể bước tiếp cùng đồng đội. Tuy nhiên có thể thấy người lính gục xuống khi đang đi giữa hàng quân nhưng "súng mũ" vẫn bên mình. Như vậy là dù không vượt qua được khó khăn nhưng các anh cũng không thóai lui, chùn bước, không đầu hàng khó khăn, không rời bỏ đội ngũ. Và nhất là với cách diễn đạt chủ động trong hai cụm từ "không bước nữa" và "bỏ quên đời", Quang Dũng đã làm hiện lên sự kiêu bạt, ngang tàng của những chiến binh dãi dầu mưa nắng. Hiện thực khắc nghiệt của chiến tranh đã được Quang Dũng biểu hiện bằng cách nói thật lãng mạn góp phần tô đậm vẻ đẹp bi tráng của người lính Tây Tiến, qua đó nhà thơ đã làm hiện lên không phải khó khăn mà là tinh thần dũng cảm vượt lên trên khó khăn của những người chiến sĩ, kiên cường đối diện với mọi gian truân, thử thách.
Con đường hành quân của chiến sĩ Tây Tiến không chỉ có gian truân thử thách,vất vả mà còn có cả những kỉ niệm ngọt ngào, thắm thiết ân tình; miền Tây không chỉ có núi cao rừng sâu, mà còn có những bản làng nên thơ mới khói lam chiều ấm áp quyện bên sườn núi, có hương thơm quyến rũ của xôi nếp nương và nhất là có những sơn nữ tình tứ và xinh đẹp:
Hai câu thơ là những cụm từ ngũ đã được xóa bỏ các yếu tố kết nối để thành một tập hợp những ấn tượng sâu đậm còn lại trong tiềm thức,trong nỗi nhớ của thi nhân. Đó là những ấn tượng của thị giác, thính giác, khứu giác và xúc giác về cảnh và tình miền Tây. Mở đầu bằng cụm từ "nhớ ôi", câu thơ đã bộc lộ cảm xúc nhớ nhung dâng trào mãnh liệt. Sau những chặng đường hành quân giữa mưa rừng buốt lạnh, giữa núi cao vực sâu, giữa những tiếng chân thú rừng rình rập đầy đe dọa..., phút dừng chân bên một bản làng miền Tây với bát cơm nếp mới thơm ngào ngạt, cùng làn khói bếp ấm áp mỏng manh vương vấn đã đem đến cho các chiến sĩ cảm giác thanh bình thật hiếm hoi, quí giá trong chiến tranh. Giống như âm thanh tiếng gà trưa trên đường hành quân cảu anh chiến sĩ trong bài thơ của Xuân Quỳnh, hương thơm bát xôi nếp đầu mùa ở Mai Châu sẽ mãi là một kỉ niệm khó quên về tình quân dân ấm áp trong đời người lính.
Câu thơ "Mai Châu mùa em thơm nếp xôi" gợi ra nhiều cách hiểu. Có thể hiểu các chiến sĩ Tây Tiến dừng chân ở Mai Châu giữa mùa lúa chín, đón nhận bát xôi ngào ngạt hương nếp đầu mùa từ bàn tay dịu dàng của cô gái miền Tây. Cũng có thể hiểu những câu thơ theo một nét nghĩa lãng mạn từ hai chữ "mùa em". Người ta thường chỉ nói về mùa hoa, mùa quả...đó là thời điểm căng tràn, sung mãn, đầy ắp sắc hương của hoa trái... Quang Dũng đã tạo ra một nét nghĩa mới mẻ, táo bạo và thật đa tình trong tập hợp "mùa em" khiến cho Mai Châu không chỉ là một địa danh gắn với kỉ niệm thơm thải của xôi nếp đầu mùa, của tình yêu quân dân sâu nặng; Mai Châu còn gợi nhớ tới hình ảnh những cô gái miền Tây duyên dáng. Có người lính nào quên được giây phút dừng chân ở Mai Châu, khi nồng ấm xung quanh các anh là dân làng, là các sơn nữ sóng sánh ánh mắt, rạng ngời nụ cười, nồng nàn hương sắc...Những thanh bằng trong câu thơ đã gợi tả tình tế cảm giác bồng bềnh, xao xuyến tới ngất ngây, đê mê trong tâm hồn những chàng trai Hà Thành hào hoa, lãng mạn.
III. Kết bài
Với sự kết hợp uyển chuyển giữa bút pháp hiện thực và cảm hứng lãng mạn, giữa chất họa và chất nhạc, 14 câu thơ đầu trong bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng đã tái hiện sinh động và gợi cảm về vùng đất miền Tây hiểm trở, khắc nghịêt mà thơ mộng, kì thú gắn liền với chặng đường hành quân của trung đoàn Tây Tiến. Qua những kỉ niệm hiện lên trong nỗi nhớ da diết về quá khứ, Quang Dũng đã thể hiện chân thức bức chân dung của những người lính Tây Tiến kiêu dũng và hào hoa, góp phần làm đậm thêm cảm hứng chủ đạo cho bài thơ.
Quang Dũng là một nghệ sĩ đa tài: làm thơ, viêt văn, vẽ tranh, soạn nhạc. Nhưng trước hết ông vẫn là một nhà thơ xuất sắc của thi ca Việt Nam hiện đại, một nhà thơ trưởng thành từ cuộc sống kháng chiến chống Pháp, một hồn thơ phóng khoáng và tâm huyết, một tiếng thơ tinh tế và lãng mạn... Tây Tiến là bài thơ tiêu biểu cho đời thơ Quang Dũng, thể hiện tập trung những nét đặc sắc trong phong cách nghệ thuật của nhà thơ. Tây Tiến cũng là một trong số những bài thơ hay nhất viết về đề tài người lính của thơ ca kháng chiến chống Pháp. Cả bài thơ là nỗi nhớ da diết của Quang Dũng hướng về những kỉ niệm không thể nào quên với miền Tây và trung đoàn Tây Tiến.
II. Thân bài
Trong 14 câu đầu, nỗi nhớ của nhà thơ chủ yếu hướng về chặng đường hành quân gian nan, vất vả của đoàn quân Tây Tiếnqua vùng rừng núi miền Tây. Thông qua những kỉ niệm với thiên nhiên, con người, Quang Dũng đã khắc họa vẻ đẹp hào hoa, hào hùng của con người chiến binh Tây Tiến. Câu thơ đầu chia thành hai vế trong nhịp ngắt 4 - 3:
"Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!"
Sông Mã là dòng sông chảy dọc theo địa bàn biên giới Việt - Lào của các tỉnh Mộc Châu, Sầm Nưa, Mai Châu, Quan Hóa... Đây là dòng sông nhiều ghềnh thác đổ dốc dữ dội, một mình băng băng giữa núi rừng hùng vĩ, hai bên bờ sông còn rải rác mồ của các chiến sĩ Tây Tiến. Vì thế, sông Mã là một cảnh sắc thiên nhiên hùng vĩ, là hình ảnh của thiên nhiên miền Tây; nhưng dòng sông Mã còn là dòng sông gắn liền với chặng đường hành quân của trung đòan, từng chia sẻ và chứng kiến những buồn vui, những mất mát, hi sinh, từng "gầm lên khúc độc hành" tiễn đưa tử sĩ... Sông Mã đựng đầy kỉ niệm về trung đoàn Tây Tiến năm xưa. Hành hương trở về quá khứ, Quang Dũng đã nhắc tới sông Mã như một biểu tượng đầu tiên của nỗi nhớ
Bài thơ được viết khi Quang Dũng đang ở Phù Lưu Chanh, xa trung đoàn, xa đồng đội, xa núi rừng miền Tây và dòng sông Mã thân yêu. Nhịp ngắt 4 - 3 tạo cảm giác như có một phút ngừng lặng để cảm nhận sự trống trải, mênh mông trong thực tại bởi"sông Mã xa rồi...", để sau đó, hiện thực mờ đi, nỗi nhớ ùa vào trong tiếng gọi tha thiết hướng về quá khứ: "Tây Tiến ơi!".Tiếng gọi ấy không dừng lại trong câu thơ đầu mà như để ngân nga nỗi tiếp trong vần "ơi" của từ láy "chơi vơi" trong câu thứ hai. Phép điệp vần tinh tế khiến tiếng gọi như âm vang, đập vào vách đá, dội lại lòng người, da diết, bâng khuâng... Sau tiếng gọi ấy, nỗi nhớ ào ạt, trào dâng trong câu thơ tiếp theo:
"Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi!"
Từ "nhớ" điệp lại ở đầu hai vế câu diễn tả một nỗi nhớ day dứt, ám ảnh, không thể nguôi ngoai. Vế đầu của câu thơ xác định đối tượng của nỗi nhớ: "nhớ về rừng núi". Đó là không gian mênh mông của miền Tây với những địa danh như Sài Khao, Mường Lát, Pha Luông... những địa danh vừa gợi lên kỉ niệm về con đường hành quân gian truân, vất vả, vừa gây ấn tượng mạnh mẽ về miền đất heo hút, hoang sơ...
Và vì thế, nỗi nhớ không chỉ dừng lại ở "rừng núi", nỗi nhớ còn hướng về những năm tháng quá khứ đầy kỉ niệm và những đồng đội thân yêu nay kẻ còn người mất.
Vế sau của câu thơ dành để miêu tả sắc thái của nỗi nhớ. "Chơi vơi" là từ láy vần gợi đọ cao phiêu du, bay bổng, là từ láy thật phù hợp để miêu tả nỗi nhớ hướng về vùng núi cao miền Tây. Hơn nữa, từ láy "chơi vơi" còn gợi cảm giác về nỗi nhớ da diết, mơ hồ, đầy ám ảnh, một nỗi nhớ lơ lửng ăm ắp khôn nguôi. Có thể thấy hai câu thơ đầu đã thể hiện cảm hứng chủ đạo của đoạn thơ, cũng là của bài thơ, đó là nỗi nhớ tha thiết của người cựu chiến binh miền Tây hướng về miền Tây, về trung đòan Tây Tiến, về những năm tháng quá khứ không thể nào quên.
a. Kí ức về miền Tây
Thông qua những nét vẽ thật tài hoa, vừa chân thực, vừa thấm đẫm chất lãng mạn, Quang Dũng đã làm hiện lên bức tranh của thiên nhiên miền Tây heo hút, hiểm trở nhưng vô cùng hùng vĩ, thơ mộng và xiết bao kì thú. Nét đặc sắc đầu tiên của thiên nhiên miền Tây trong kí ức của Quang Dũng chính là màn sương rừng mờ ảo: sương phủ dày ở Sài Khao, sương bồng bềnh ở Mường Lát... Đó không chỉ là màn sương của thiên nhiên mà còn là màn sương mờ của kỉ niệm, của nỗi nhớ nhung:
"Sài Khao sương lấp đòan quân mỏi
Mường Lát hoa về trong đêm hơi"
Mường Lát hoa về trong đêm hơi"
Bút pháp hiện thực trong câu thơ trên đã miêu tả một đoàn quân dãi dầu, mệt mỏi, thấp thoáng ẩn hiện trong sương. Nhịp ngắt 4 - 3 khiến trọng tâm câu thơ rơi và chữ "lấp" - một động từ có sức gợi tả; màn sương rừng miền Tây mênh mông, dày đặc, che kín của một "đòan quân", trùm phủ, khuất mờ rừng núi khiến con đường hành quân của chiễn sĩ thêm vất vả, gian lao. Tới câu thơ sau, hiện thực khắc nghiệt đã được thi vị hóa bởi cảm hứng lãng mạn: đêm sương trở thành "đêm hơi" bồng bềnh; những ngọn đuối soi đường di chuyển dọc theo con đường chiến sĩ hành quân được nhìn thành những đóa "hoa" chập chờn, lung linh, huyền ảo...Những thanh bằng nhẹ bỗng trong câu thơ càng làm đậm thêm sự hư ảo của màn sương rừng. Sự khắc nghiệt của thiên nhiên đã được cảm nhận một cách thi vị bởi những tâm hồn lãng mạn, hào hoa.
Nhớ đến miền Tây, không thể nào quên được sự hiểm trở và hùng vĩ vô cùng của dốc núi. Ba câu thơ tiếp theo đã miêu tả thật sắc nét khung cảnh thiên nhiên hùng vũ và hiểm trở ấy, qua đó làm hiện lên cuộc hành quân gian lao, vất vả, ý chí bất khuất, kiên cường, tinh thần lạc quan, yêu đời của người lính Tây Tiến. Câu thơ thứ nhất tập trực tiếp miêu tả dốc núi miền Tây trập trùng, hiểm trở:
" Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm"
Sự phối hợp dày đặc của năm thanh trắc đã tạo ra âm hưởng gập ghềnh cho một câu thơ bảy chữ khiến người đọc có thể hình dung ra phần nào cuộc hành quân gian truân, vất vả vô cùng của chiến sĩ Tây Tiến trong một địa hình mà sự hiểm trở được gợi ra ngay trong nhạc điệu của câu thơ. Câu thơ ngắt nhịp 4 - 3, từ "dốc" điệp lại ở đầu hai vế câu thơ đã thể hiện sự trùng điệp, chồng chất, nối tiếp như tới vô tận của những con dốc, cũng phần nào gợi lên nỗi nhọc nhằn của người lính trên đường hành quân: con dốc này chưa qua, con dốc khác lại đợi sẵn, núi rừng miền Tây như muốn thử thách ý chí, nghị lực của các anh.
Sự hiểm trở của dốc núi miền Tây cũng hiện ra trong ý nghĩa tạo hình và biểu cảm của những từ láy "khúc khuỷu" và"thăm thẳm". "Khúc khuỷu" miêu tả sự gồ ghề, gập ghềnh của dốc núi ngay dưới chân chiến sĩ. Còn từ láy "thăm thẳm"lại gợi độ cao hun hút, độ xa vời khi đưa mắt nhìn tiếp con đường hành quân vẫn cheo leo, ngút ngàn như khôn cùng. Con đường lên miền Tây quả là "khó như đi lên trời xanh".
Dốc núi miền Tây còn được gợi tả gián tiếp trong câu thơ sau với việc tô đậm ấn tượng về một độ cao chót vót:
"Heo hút cồn mây súng ngửi trời"
Từ láy "heo hút" vừa gợi cao, vừa gợi xa, vừa gợi vắng được đảo lên đầu câu như để nhấn mạnh sự hoang sơ, xa vắng, thăm thẳng như vô tận của dốc núi miền Tây trong cảm nhận của chiến sĩ Tây Tiến - những chàng trai đến từ thủ đô hoa lệ. Còn "cồn mây" lại là một ẩn dụ đặc sắc cho thấy mây núi miền Tây bồn bề, chồng chất, dựng lên thành dốc, thành cồn; từ đó câu thơ gián tiếp cho thấy dốc núi miền Tây cao đến mứa con đường như lấn vào mây, mây bao phủ đường lối, mây mờ mịt trập trùng, mây khiến con đường hành quân của chiến sĩ càng thêm cheo leo, hiểm trở, hoang vu. Vế sau của câu thơ cũng tiếp tục gợi tả độ cao của dốc núi khi người lính như đi trong mây, mũi súng như chạm tới đỉnh trời. Đó là một cảm nhận có thực của thị giác khi những người lính hành quân trên dốc núi miền Tây, địa hình heo hút, hiểm trở, làm tăng thêm những vất vả, gian truân cho người lính. Nhưng bằng cách nói tếu táo, hóm hỉnh đầy chất lính trong hình ảnh nhân hóa "súng ngửi trời", Quang Dũng đã cho thấy tâm hồn trẻ trung của những người lính phong trần coi thường gian lao, vất vả. Có nhà thơ đã cho rằng hình ảnh "súng ngửi trời" là "trung tâm hùng tráng của bức tranh hiểm trở, bởi ở chỗ cao ấy, có con người". Và do vậy, câu thơ không chỉ gợi lên sự hiểm trở của dốc núi, sự tươi trẻ, lạc quan của chiến sĩ Tây Tiến, tứ thơ còn khiến các anh hiện ra trong dáng vẻ ngang tàng, kiêu dũng của những chàng trai chinh phục độ cao.
Dốc núi lại tiếp tục được miêu tả trong một nét vẽ sắc sảo và gân guốc:
"Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống"
Điệp ngữ "ngàn thước" là một ước lệ nghệ thuật có tính định lượng, khắc họa vẻ đẹp hùng vĩ, chênh vênh, kì thú của núi rừng miền Tây. Yếu tố tương đồng của điệp ngữ "ngàn thước" và tính chất tương phản của các động từ "lên - xuống"trong hai vế câu đã tạo ra cảm giác về một nét gập đột ngột, dữ dội cho câu thơ, cũng là cách để nhà thơ gợi tả thật tài hoa độ của của dốc, độ sâu của vực: bên này đường lên núi dựng đứng, vút cao; bên kia vực đổ xuống hun hút, hiểm trở.
Trong cả ba câu thơ đặc bịêt giàu tính tạo hình và biểu cảm, dốc núi miền Tây được miêu tả hoặc trực tiếp hoặc gián tiếp nhưng đều khắc họa được đồng thời cả sự hiểm trở lẫn vẻ đẹp hùng vĩ, kì thú. Thông qua bức tranh thiên nhiên, có thể thấy vẻ đẹp tâm hồn của những người lính Tây Tiến: họ lạc quan, mạnh mẽ, coi thường mọi gian truân, vất vả; những thử thách của thiên nhiên chỉ càng làm rõ hơn ý chí, sức mạnh, tâm hồn trẻ trung và tư chất nghệ sĩ của họ.
Sau những câu thơ hun hút, nhọc nhằn miêu tả dốc núi, câu thơ tả mưa miên man trong bảy thanh bằng, cùng với rất nhiều âm tiết mở; câu thơ đã gợi tả một không gian mênh mang, dàn trải, nhạt nhòa trong mưa:
"Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi"
Hình ảnh "mưa xa khơi" có thể coi là một ẩn dụ cho thấy cả thung lũng mờ mịt như loãng tan trong miền mưa, không gian bỗng như mênh mang, xa vời hơn... Sau những chặng đường hành quân gian khổ, người lính như đang dừng chân đâu đó, đưa mắt nhìn cả núi rừng chìm trong mưa. Ánh mắt những người lính xa nhà bâng khuâng hướng tới những ngôi nhà bồng bềnh, thấp thoáng, ẩn hiện trong màn mưa hư ảo... Sắc thái phiếm chỉ khiến cụm từ "nhà ai" trở nên mơ hồ, xa xăm. Sắc thái nghi vấn lại gợi nỗi trăn trở trong lòng người. Cả câu thơ chỉ có duy nhất tiếng "nhà" mang thanh huyền như một thoáng trầm lắng, suy tư để rồi sau đó, tất cả những thanh không chơi vơi trong nỗi nhớ. Giữa mưa rừng buốt lạnh, giữa núi rừng mênh mông, hình ảnh ngôi nhà gợi cảm giác ấm áp, nhớ nhung dễ làm xao xuyến lòng người xa quê.
Núi rừng miền Tây tiếp tục được miêu tả trong những nét vẽ đầy ấn tượng:
"Chiều chiều oai linh thác gầm thét
Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người"
Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người"
"Thác gầm thét" và "cọp trêu người" là hai hình ảnh nhân hóa thể hiện sự dữ dội, hoang sơ đầy bí hiểm của núi rừng miền Tây. Bút pháp đối lập của cảm hứng lãng mạn được sử dụng trong phép đối thanh rất tinh tế ở hai câu thơ này. Nếu câu trên có các tiếng "thác", "thét" mang thanh trắc ở âm vực cao thì câu dưới là các tiếng "Hịch", "cọp" cũng mang thanh trắc nhưng lại thuộc âm vực thấp. Và có thể thấy những dấu sắc trong câu trên như gợi âm thanh của tiếng thác nước man dại ở vòm cao thăm thẳm; những dấu nặng liên tiếp trong câu thơ dưới lại như một phỏng tiếng bước chân nặng nề của thú dữ, gợi ra cái thâm u, bí ẩn đầy đe dọa ở vòm tối thấp của núi rừng.
"Chiều chiều" và "đêm đêm" là những trạng ngữ chỉ dòng thời gian tuần hòan, miên viễn, vĩnh hằng. Những sức mạnh thiên nhiên khủng khiếp đã ngự trị núi rừng miền Tây không phải một chiều, một đêm mà là "chiều chiều - đêm đêm" - sự ngự trị muôn đời! Nhưng cũng chính điều này lại càng khiến chân dung người chiến sĩ Tây Tiến thêm hào hùng, mạnh mẽ: họ đã hành quân qua những vùng đất hoang sơ, dữ dội, vắng bóng con người, những vùng đất tưởng như chỉ là vương quốc riêng của heo hút mây trời, của rừng thiêng nước độc; vùng đất ấy nay đã in dấu chân của những người chiến sĩ kiên cường, dũng cảm trong đoàn quân Tây Tiến.
b. Kí ức về người lính Tây Tiến trên đường hành quân
Sự vất vả, gian truân cũng như vẻ đẹp trong tâm hồn người lính Tây Tiến đã ít nhiều thể hiện trong những câu thơ miêu tả cảnh thiên nhiên miền Tây và hành trình qua miền Tây, ngòai ra còn có những câu thơ trực tiếp miêu tả hình ảnh người lính cũng như những kỉ niệm của họ trong chặng đường hành quân. Trước hết là một kí ức sâu đậm của Quang Dũng về hình ảnh một người chiến sĩ Tây Tiến trên đường hành quân:
"Anh bạn dãi dầu không bước nữa
Gục lên súng mũ bỏ quên đời!"
Gục lên súng mũ bỏ quên đời!"
Từ láy "dãi dầu" đã thể hiện tòan bộ những vất vả, nhọc nhằn của các anh khi hành quân qua miền Tây, khi vượt qua những núi cao, vực sâu, thác ghềnh dữ dội, vượt qua những nắng mưa, sương gió miền Tây . . . Hai câu thơ tựa nhưa một bức kí họa đầy ấn tượng về người lính Tây Tiến. Có thể hiểu đây là hình ảnh người lính phong trần buông mình vào giấc ngủ hiếm hoi trong phút dừng chân, một giấc ngủ mệt nhọc nhưng vô tư, trẻ trung. Cũng có thể hiểu đây là câu thơ miêu tả một thực tế đau xót trên chiến trường khi người lính kiệt sức gục ngã không thể bước tiếp cùng đồng đội. Tuy nhiên có thể thấy người lính gục xuống khi đang đi giữa hàng quân nhưng "súng mũ" vẫn bên mình. Như vậy là dù không vượt qua được khó khăn nhưng các anh cũng không thóai lui, chùn bước, không đầu hàng khó khăn, không rời bỏ đội ngũ. Và nhất là với cách diễn đạt chủ động trong hai cụm từ "không bước nữa" và "bỏ quên đời", Quang Dũng đã làm hiện lên sự kiêu bạt, ngang tàng của những chiến binh dãi dầu mưa nắng. Hiện thực khắc nghiệt của chiến tranh đã được Quang Dũng biểu hiện bằng cách nói thật lãng mạn góp phần tô đậm vẻ đẹp bi tráng của người lính Tây Tiến, qua đó nhà thơ đã làm hiện lên không phải khó khăn mà là tinh thần dũng cảm vượt lên trên khó khăn của những người chiến sĩ, kiên cường đối diện với mọi gian truân, thử thách.
Con đường hành quân của chiến sĩ Tây Tiến không chỉ có gian truân thử thách,vất vả mà còn có cả những kỉ niệm ngọt ngào, thắm thiết ân tình; miền Tây không chỉ có núi cao rừng sâu, mà còn có những bản làng nên thơ mới khói lam chiều ấm áp quyện bên sườn núi, có hương thơm quyến rũ của xôi nếp nương và nhất là có những sơn nữ tình tứ và xinh đẹp:
"Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói
Mai Châu mùa em thơm nếp xôi"
Mai Châu mùa em thơm nếp xôi"
Hai câu thơ là những cụm từ ngũ đã được xóa bỏ các yếu tố kết nối để thành một tập hợp những ấn tượng sâu đậm còn lại trong tiềm thức,trong nỗi nhớ của thi nhân. Đó là những ấn tượng của thị giác, thính giác, khứu giác và xúc giác về cảnh và tình miền Tây. Mở đầu bằng cụm từ "nhớ ôi", câu thơ đã bộc lộ cảm xúc nhớ nhung dâng trào mãnh liệt. Sau những chặng đường hành quân giữa mưa rừng buốt lạnh, giữa núi cao vực sâu, giữa những tiếng chân thú rừng rình rập đầy đe dọa..., phút dừng chân bên một bản làng miền Tây với bát cơm nếp mới thơm ngào ngạt, cùng làn khói bếp ấm áp mỏng manh vương vấn đã đem đến cho các chiến sĩ cảm giác thanh bình thật hiếm hoi, quí giá trong chiến tranh. Giống như âm thanh tiếng gà trưa trên đường hành quân cảu anh chiến sĩ trong bài thơ của Xuân Quỳnh, hương thơm bát xôi nếp đầu mùa ở Mai Châu sẽ mãi là một kỉ niệm khó quên về tình quân dân ấm áp trong đời người lính.
Câu thơ "Mai Châu mùa em thơm nếp xôi" gợi ra nhiều cách hiểu. Có thể hiểu các chiến sĩ Tây Tiến dừng chân ở Mai Châu giữa mùa lúa chín, đón nhận bát xôi ngào ngạt hương nếp đầu mùa từ bàn tay dịu dàng của cô gái miền Tây. Cũng có thể hiểu những câu thơ theo một nét nghĩa lãng mạn từ hai chữ "mùa em". Người ta thường chỉ nói về mùa hoa, mùa quả...đó là thời điểm căng tràn, sung mãn, đầy ắp sắc hương của hoa trái... Quang Dũng đã tạo ra một nét nghĩa mới mẻ, táo bạo và thật đa tình trong tập hợp "mùa em" khiến cho Mai Châu không chỉ là một địa danh gắn với kỉ niệm thơm thải của xôi nếp đầu mùa, của tình yêu quân dân sâu nặng; Mai Châu còn gợi nhớ tới hình ảnh những cô gái miền Tây duyên dáng. Có người lính nào quên được giây phút dừng chân ở Mai Châu, khi nồng ấm xung quanh các anh là dân làng, là các sơn nữ sóng sánh ánh mắt, rạng ngời nụ cười, nồng nàn hương sắc...Những thanh bằng trong câu thơ đã gợi tả tình tế cảm giác bồng bềnh, xao xuyến tới ngất ngây, đê mê trong tâm hồn những chàng trai Hà Thành hào hoa, lãng mạn.
III. Kết bài
Với sự kết hợp uyển chuyển giữa bút pháp hiện thực và cảm hứng lãng mạn, giữa chất họa và chất nhạc, 14 câu thơ đầu trong bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng đã tái hiện sinh động và gợi cảm về vùng đất miền Tây hiểm trở, khắc nghịêt mà thơ mộng, kì thú gắn liền với chặng đường hành quân của trung đoàn Tây Tiến. Qua những kỉ niệm hiện lên trong nỗi nhớ da diết về quá khứ, Quang Dũng đã thể hiện chân thức bức chân dung của những người lính Tây Tiến kiêu dũng và hào hoa, góp phần làm đậm thêm cảm hứng chủ đạo cho bài thơ.
Sưu tầm
0 nhận xét:
Post a Comment